Sổ hộ khẩu bằng giấy sẽ sớm bị loại bỏ vào ngày 1/1/2023 và người dân có thể dùng các loại giấy khác để sử dụng thay thế.
Sổ hộ khẩu luôn là loại giấy tờ quan trọng trong đối với mỗi người dân vì đây là loại giấy tờ được sử dụng nhiều trong các thủ tục hành chính, giao dịch. Tuy nhiên loại sổ hộ khẩu bằng giấy quen thuộc sẽ sớm bị loại bỏ. Theo đó tại khoản 3, Điều 38 Luật Cư trú 2020 nêu rõ, sổ hộ khẩu vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú đến hết ngày 31/12/2022.
Sau khi sổ hộ khẩu bằng giấy bị loại bỏ, điều nhiều người quan tâm nhất đó là họ có thể dùng các loại giấy tờ nào để có thể thay thế sổ hộ khẩu giấy truyền thống. Để giải quyết trường hợp này, công dân có thể yêu cầu cơ quan quản lý cư trú (Công an) cấp Giấy xác nhận thông tin về cư trú để sử dụng thay thế sổ hộ khẩu giấy trong trường hợp cần dùng đến.
Nội dung liên quan
Theo Điều 17, thông tư số 55/2021 của Bộ Công an, công dân có quyền yêu cầu cấp Giấy xác nhận thông tin về cư trú theo 2 cách sau đây: Đến trực tiếp cơ quan đăng ký cư trú trên cả nước ( không phụ thuộc vào nơi cư trú) để yêu cầu cấp Giấy xác nhận thông tin về cư trú; hoặc công dân cũng có thể gửi yêu cầu xác nhận thông tin cư trú thông qua Cổng dịch vụ công Bộ Công an, Cổng dịch vụ công quản lý cư trú, Cổng dịch vụ công quốc gia.
Giấy xác nhận thông tin về cư trú sẽ bao gồm các nội dung: Địa điểm, thời gian, hình thức đăng ký cư trú. Giấy xác nhận thông tin về cư trú có giá trị 6 tháng kể từ ngày cấp đối với trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 19 Luật Cư trú, xác nhận về việc khai báo cư trú và có giá trị 30 ngày kể từ ngày cấp đối với trường hợp xác nhận thông tin về cư trú.
Nội dung liên quan
Trong trường hợp thông tin về cư trú của công dân có sự thay đổi, điều chỉnh và được cập nhật trong Cơ sở dữ liệu về cư trú thì xác nhận thông tin về cư trú sẽ hết giá trị kể từ thời điểm thay đổi. Về thời gian cấp Giấy xác nhận về cư trú, cơ quan có thẩm quyền sẽ xác nhận thông tin về cư trú dưới hình thức văn bản (có chữ ký và đóng dấu của Thủ trưởng cơ quan đăng ký cư trú) hoặc văn bản điện tử (có chữ ký số của Thủ trưởng cơ quan đăng ký cư trú) theo yêu cầu của công dân trong thời hạn 3 ngày làm việc.
Nguồn: TH&PL